Những hậu quả của viêm loét dạ dày tá tràng bạn nên biết
Viêm loét dạ dày tá tràng là hiện tượng xuất hiện các vết loét ở dạ dày, tá tràng. Viêm loét dạ dày tá tràng có thể ăn sâu vào thành dạ dày vượt ra ngoài lớp cơ niêm mạc, có thâm nhiễm, viêm nhiễm và hoại tử, đông máu xung quanh. Loét dạ dày tá tràng thường hình thành phổ biến nhất ở hành tá tràng và dạ dày, ít thường xuyên hơn ở phần dưới của thực quản hoặc quai tá tràng.
Nội dung bài viết
1. Nguyên nhân gây ra viêm loét dạ dày tá tràng
Có nhiều nguyên nhân khác nhau có thể gây ra viêm loét dạ dày tá tràng, tuy nhiên nguyên nhân được nhắc đến thường xuyên là Nhiễm khuẩn Helicobacter pylori (là một loại xoắn khuẩn gram âm, sống trong lớp nhầy trên bề mặt niêm mạc dạ dày) và do sử dụng thuốc không steroid (NSAID).
Nhiễm H. pylori gây ra hơn một nửa số ca loét tá tràng và loét dạ dày. Sự tồn tại của vi khuẩn H. pylori trong một môi trường có tính axit có thể do việc sản xuất các urease, mà urê phân hủy với việc phát hành của các ion amoni, trung hòa axit clohiđric. Ban đầu, H. pylori gây viêm cấp tính phần trước của dạ dày, sau vài tuần sẽ trở thành mãn tính, và tăng đường huyết, gây tăng tiết axit clohidric, đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh loét tá tràng.
Sử dụng thuốc NSAID (nhóm thuốc giảm đau, kháng viêm không steroid) làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, chủ yếu do giảm sản xuất prostaglandin do ức chế cyclooxygenase loại 1 (COSX-1). Ngoài ra, chúng còn ức chế chức năng của các tiểu cầu trong máu, thúc đẩy quá trình chảy máu. Thuốc chống kết tập tiểu cầu clopidogrel làm suy giảm quá trình hình thành mạch và có thể làm giảm quá trình chữa lành vết mòn và loét niêm mạc dạ dày do các loại thuốc khác hoặc nhiễm H. pylori gây ra. Nếu bạn sử dụng thuốc NSAID và có nguy cơ mắc viêm loét dạ dày hành tá tràng thì hãy hỏi ý kiến bác sĩ để các bác sĩ tư vấn xem xét khi đánh giá nguy cơ mắc bệnh loét dạ dày tá tràng. Các yếu tố nguy cơ gây tổn thương niêm mạc do sử dụng thuốc NSAID: gây ra viêm loét dạ dày tá tràng hoặc chảy máu do loét.
2. Hậu quả của viêm loét dạ dày tá tràng
- Hậu quả chính của viêm loét dạ dày tá tràng là đau hoặc khó chịu vùng thượng vị, xuất hiện 1-3 giờ sau khi ăn, biến mất sau khi ăn hoặc uống thuốc kháng axit. Cơn đau thường xuất hiện vào ban đêm hoặc sáng sớm. Đau vùng thượng âm ỉ là một trong những biểu hiệu đối với loét dạ dày tá tràng.
- Gây ra tình trạng khó tiêu, buồn nôn và nôn mửa thường xuyên
- Gây ra tình trạng chảy máu đường tiêu phía trên: biểu hiện bằng nôn ra máu hoặc nôn ra “bã cà phê” và phân có máu .
- Thủng vùng thượng vị: Biểu hiện bằng cơn đau xuyên thủng đột ngột vùng thượng vị, sau đó các triệu chứng viêm phúc mạc lan tỏa phát triển nhanh chóng.
- Hẹp môn vị: Là hậu quả của sẹo kéo dài hoặc phù nề và viêm nhiễm ở vùng bị loét trong ống môn vị hoặc trong bóng của tá tràng. Biểu hiện bằng sự trì trệ các chất trong dạ dày, buồn nôn và nôn mửa nhiều; một số bệnh nhân bị hạ kali máu và nhiễm kiềm. Trong quá trình điều trị bằng thuốc chống viêm, tình trạng viêm và phù nề biến mất và sự thông thoáng của môn vị có thể cải thiện.
3. Phương pháp chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng
Hiện nay các cơ sở y tế có nhiều phương pháp khác nhau để chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng như: Nội soi, xét nghiệm tìm vi khuẩn H.pylori, xét nghiệm hơi thở, thử nghiệm urease…
Phương pháp nội soi phát hiện viêm loét dạ dày tá tràng
Hình ảnh nội soi loét dạ dày có thể là một lỗ tròn, ranh giới rõ ràng, đường kính khoảng 1cm hoặc lõm không đều, có bờ thâm nhiễm, thường gặp nhất ở góc dạ dày hoặc vùng tiền môn vị, có thể xuất hiện nhiều vết loét. Ở tá tràng, ổ loét thường khu trú ở thành trước có đường kính <1 cm.
Xét nghiệm tìm nhiễm H. pylori chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng
Xét nghiệm tìm vi khuẩn H.pylori để xem nguyên nhân gây ra viêm loét dạ dày tá tràng có phải từ nhiễm H.pylori hay không. Nếu bạn sử dụng thuốc kháng sinh, bismuth, PPIs thì bác sĩ sẽ khuyên bạn:
– Ngưng thuốc kháng sinh và bismuth (thuốc dùng để điều trị viêm loét dạ dày) trước hoặc hơn 4 tuần trước khi xét nghiệm.
– Ngưng thuốc PPIs (là loại thuốc có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng gây ra do tăng tiết acid dịch vị dạ dày) vào khoảng 2 tuần trước khi thực hiện xét nghiệm, ngoại trừ xét nghiệm huyết thanh học.
Thực hiện xét nghiệm tìm kháng nguyên H. pylori trong phân – xét nghiệm được thực hiện trong phòng thí nghiệm bằng ELISA. Ngoài ra thực hiện xét nghiệm hơi thể cũng có thể tìm được vi khuẩn H.pylori
Ngoài ra các bác sĩ cũng có thể chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng bằng các xét nghiệm như:
– Thử nghiệm urease (được thực hiện thường xuyên nhất), sinh thiết niêm mạc dạ dày được đặt trên một đĩa chứa urê có thêm chất chỉ thị màu, sự phân hủy ure của vi khuẩn thành amoniac kiềm hóa môi trường và gây ra sự thay đổi màu sắc của nó (độ nhạy và độ đặc hiệu của 2 sinh thiết 95%).
– Kiểm tra mô học của sinh thiết màng nhầy;
– Nuôi cấy vi khuẩn trong phòng xét nghiệm;
– Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng – kết quả dương tính không cho thấy nhiễm trùng đang hoạt động, vì các kháng thể được phát hiện trong vòng một năm hoặc lâu hơn sau khi điều trị. Tuy nhiên, chúng có thể được sử dụng trong điều trị PPI, cũng như ở những bệnh nhân có các yếu tố làm giảm độ nhạy của các xét nghiệm khác: sau khi điều trị kháng sinh gần đây, bị loét dạ dày chảy máu, viêm dạ dày teo hoặc ung thư dạ dày.
Không phải tất cả các bệnh nhân đến bệnh viện đều phải thực hiện hết tất cả các xét nghiệm trên để chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng. Trên thực thê tùy vào tình trạng bệnh (tiền sử bệnh), tuổi, sức khỏe của mỗi người mà các bác sĩ sẽ áp dụng các phương pháp phù hợp để chẩn đoán bệnh.
Hy vọng những kiến thức trong bài viết đã phần nào giúp bạn hiểu được những hậu quả của viêm loét dạ dày tá tràng. Để tìm hiểu sâu hơn về các phương pháp dự phòng cũng như điều trị được áp dụng với bệnh viêm loét dạ dày tá tràng hãy liên hệ với chuyên gia của chúng tôi.